(bài giảng Kỹ năng tư vấn pháp luật – VB 2, ĐH Luật Hà Nội, 2017)
Vấn đề 2: Kỹ năng xây dựng và phát triển mối quan hệ với khách hàng tư vấn PL
Thông thường, quy trình tư vấn Pháp luật gồm các bước:
+ B1: tiếp xúc khách hàng, tìm hiểu yêu cầu tư vấn
+ B2: thỏa thuận tư vấn, cách thức làm việc, đàm phán, soạn thảo ký kết Hợp đồng tư vấn PL
+ B3: nghiên cứu hồ sơ, phân tích đánh giá vụ việc, và xây dựng phương án tư vấn
+ B4: chuyên gia thực hiện tư vấn (bằng lời nói, bằng văn bản)
+ B5: thu phí tư vấn, thanh lý hợp đồng, lấy phiếu đánh giá của khách hàng
Vấn đề 5: Kỹ năng đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng
– Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng là việc cá nhân, pháp nhân này thực hiện quyền, nghĩa vụ ngoài tố tụng của cá nhân, pháp nhân khác thông qua giao dịch ủy quyền theo quy định của PL.
Chú ý: phân biệt với đại diện trong tố tụng là thực hiện quyền, nghĩa vụ cho khách hàng theo quy định của các luật tố tụng. So với đại diện ngoài tố tụng thì PL về (trong) tố tụng quy định về đại diện đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn. Đại diện trong và ngoài tố tụng thường có sự liên thông với nhau, và thực tế thường khách hàng ủy quyền cả trong tố tụng và ngoài tố tụng.
Như vậy khi thực hiện đại diện ngoài tố tụng, tức là đã có sự chuyển dịch quyền và nghĩa vụ của chủ thể sang người được ủy quyền.
Chú ý: sau khi Luật dân sự 2015 có hiệu lực, thì không chỉ cá nhân mà pháp nhân cũng được ủy quyền.
– Các trường hợp phát sinh nhu cầu đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng:
+ khách hàng không am hiểu về lĩnh vực mà họ có quyền, nghĩa vụ cần phải thực hiện: đây là trường hợp phổ biến nhất trong thực tế
+ khách hàng có trở ngại về thể chất, sức khỏe, tâm lý khi tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ: như đang bị đau ốm, bệnh tật, hoặc vì tâm lý “ngại xuất hiện”, ngại tiếp xúc với chính quyền
+ khách hàng có trở ngại về thời gian, không gian khi tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ: như do điều kiện công tác không có thời gian, hoặc vụ việc diễn ra ở địa phương khác với nơi cư trú
+ nhiều khách hàng có quyền, nghĩa vụ tương tự cần phải thực hiện với 1 cá nhân, pháp nhân khác: VD tất cả nhân sự công ty ủy quyền quyết toán thuế TNCN cho bộ phận kế toán; Luật khiếu nại quy định khi khiếu nại đông người thì bắt buộc phải có người đại diện
+ giao dịch ủy quyền ngoài tố tụng cần được xác lập để bảo đảm thực hiện 1 giao dịch khác với khách hàng: ví dụ A chưa đủ 18 tuổi, muốn mua ngôi nhà của B (đã đủ 18 tuổi) và thực tế đã trả tiền cho B, tuy nhiên A chưa đủ điều kiện để ký hợp đồng với B, khi đó B thực hiện ủy quyền cho A toàn quyền định đoạt (mua bán, tặng cho) ngôi nhà đó để đến khi A đủ 18 tuổi sẽ thực hiện quyền của mình
Những lưu ý khi tiếp xúc khách hàng, tìm hiểu yêu cầu tư vấn
– Phân loại khách hàng để có cách tiếp xúc phù hợp:
+ kiểm soát được thái độ của khách hàng và của chính mình
+ xem xét các mối quan hệ về lợi ích của đương sự với khách hàng mình đang tư vấn: nếu lợi ích đối lập nhau thì cần khéo léo từ chối, viện dẫn các quy định của luật pháp (Luật trợ giúp pháp lý, Luật luật sư)
– Ngay từ đầu cần lưu ý với khách hàng rằng: chỉ có thể đưa ra giải pháp chính xác, đầy đủ và đúng PL nếu khách hàng trình bày vụ việc đầy đủ, trung thực, khách quan
– Thận trọng khi khách hàng yêu cầu đưa ra nhận định sơ bộ, phương án giải quyết vụ việc: chỉ đưa ra những nhận xét khái quát, chung chung
– Trao đổi rõ về mức phí và phương thức làm việc
+ luôn bình tĩnh: VD khách hàng đến nói “Tôi vừa giết người, đang bị truy nã, tư vấn giúp tôi” thì cũng cần bình tĩnh thực hiện đầy đủ các thủ tục như đối với khách hàng thông thường, kể cả việc nói chuyện chi phí tư vấn
+ thông thường khách hàng chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho mình, do đó cần trao đổi thẳng thắn với khách: chỉ tư vấn đúng khi khách hàng trung thực
+ khi khách hàng yêu cầu đưa ra nhận định sơ bộ:
Nội dung text: Bài giảng Pháp luật về xuất nhập khẩu
Một trong những thay đổi tích cực của giáo dục đại học Việt Nam trong những năm gần đây là mô hình đào tạo theo niên chế đã được thay thế bằng mô hình đào tạo theo tín chỉ. Với ưu điểm lấy người học làm trung tâm và năng lực người học được chú trọng, mô hình đào tạo này gắn liền với nhiều yếu tố nhưng có thể nói nguồn học liệu đóng một vai trò cốt yếu, quyết định đến sự thành công trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng như mục tiêu đào tạo của nhà trường. Trong đó, không thể thiếu vai trò của Tài liệu học tập – một dạng tài liệu có tác dụng phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo và năng lực nhận thức của sinh viên.
Để góp phần vào việc xây dựng hệ thống học liệu tại trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả xin ra mắt cuốn Tài liệu học tập môn Luật Hiến pháp Việt Nam.
Luật Hiến pháp Việt Nam là môn học đầu tiên trong hệ thống những môn học pháp lý chuyên ngành về đào tạo Luật. Do vậy, việc nắm vững các kiến thức về Luật Hiến pháp trong nước sẽ là tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu các môn học Luật chuyên ngành trong nước nói chung cũng như môn Luật Hiến pháp nước ngoài nói riêng sau này. Hy vọng rằng người học sẽ được trang bị những kiến thức bổ ích đó thông qua việc tự học, tự nghiên cứu bằng cuốn sách này.
Sách được chia thành hai phần chính: Phần I là Nội dung của môn học, bao gồm 14 chương, tương ứng với các chế định quan trọng của ngành luật Hiến pháp Việt Nam; Phần II là Nội dung hướng dẫn học tập, bao gồm các hướng dẫn về cách học, cách đọc tài liệu và làm bài thi cũng như hướng dẫn trả lời câu hỏi ôn tập và thảo luận ở mỗi chương. Trong đó, tác giả đặt rất nhiều tâm huyết vào việc hướng dẫn sinh viên mà đặc biệt là sinh viên thuộc loại hình đào tạo từ xa trong việc đọc Tài liệu học tập nói chung cũng như riêng cuốn sách này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo Nhà trường, ThS. Đặng Văn Thanh (nguyên Trưởng khoa Kinh tế và Luật), TS. Dư Ngọc Bích (Trưởng khoa Luật), Ban Học liệu của trường đã tạo điều kiện tốt nhất cho sự ra đời của Tài liệu học tập Luật Hiến pháp Việt Nam. Xin trân trọng cảm ơn ThS. Trần Đức Tuấn, PGS.TS. Võ Trí Hảo, TS. Lê Thị Hồng Nhung cùng các thành viên trong Hội đồng nghiệm thu đã có những nhận xét phản biện, đóng góp quý báu, góp phần hoàn thiện cuốn sách này.
Do ngành luật Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh rất rộng nên nội dung cuốn sách hàm chứa rất nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Mặc dù đã rất cố gắng và nghiên cứu nghiêm túc nhưng chắc chắn, tác giả không tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong nhận được những đóng góp quý báu từ Quý Bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn khi tái bản.
Bài Giảng Pháp Luật Về Công Ty Cổ Phần Read less
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XIII khẳng định bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là một trong những quan điểm chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Bài viết phân tích, đánh giá những biểu hiện của tình trạng vi phạm nguyên tắc “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” và đề xuất một số giải pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc rất quan trọng này trong thời gian tới.
Quan niệm về thượng tôn Hiến pháp và pháp luật
Quan niệm thượng tôn pháp luật hình thành rất sớm trong lịch sử nhân loại và ngày nay tiếp tục được củng cố, hoàn thiện ở mọi quốc gia, dân tộc nhằm chống lại sự tùy tiện, chuyên quyền, độc đoán của nhà cầm quyền, bộ máy nhà nước. Ở Việt Nam, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là một trong những nội dung căn bản của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay và tương lai. Để lý giải tại sao phải “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật”, cần nhận thức rằng trong đời sống xã hội hiện đại của con người có nhiều quy phạm xã hội, như pháp luật, chính trị, quy phạm do các tổ chức xã hội ban hành, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, truyền thống và nhiều quy phạm xã hội khác cùng điều chỉnh quan hệ xã hội. Trong đó, pháp luật là đại lượng chung thể hiện ý chí của toàn xã hội thông qua sự bảo đảm của nhà nước, làm cơ sở để thực hiện các hành vi, hoạt động của các tổ chức và cá nhân.
Nếu so sánh với các quy phạm xã hội khác, pháp luật có những ưu thế thể hiện qua những đặc trưng như: do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, tính được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh và sự cưỡng chế của Nhà nước(1); có chức năng điều chỉnh, bảo vệ các quan hệ xã hội và chức năng giáo dục; có vai trò là cơ sở để ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền tự do của con người; ghi nhận, bảo đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng; quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; là phương tiện củng cố những chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán, là cơ sở để củng cố, phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; là cơ sở cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội, cách xử sự của cá nhân, tổ chức trong xã hội(2). Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia đương đại, Hiến pháp là luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, làm cơ sở cho việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật khác, mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp, mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.
Pháp luật có vai trò và giá trị xã hội to lớn như vậy, cho nên mọi cơ quan tổ chức và cá nhân đều phải có nghĩa vụ tôn trọng, chấp hành, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật nghiêm minh, thường xuyên, liên tục, đặt mình dưới pháp luật - một giá trị xã hội được xây dựng, ban hành vì con người, thể hiện ý chí của Nhân dân, của toàn xã hội. Điều 8 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Quy định này dựa trên nhận thức coi Hiến pháp và pháp luật là những “mô hình”, khuôn mẫu cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước; là cơ sở, công cụ, phương tiện để quản lý mọi mặt đời sống nhà nước và xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền của cá nhân, tổ chức. Do đó, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng, chấp hành, tuân thủ, sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc đòi hỏi mọi chủ thể phải tôn trọng, chấp hành nghiêm minh, thường xuyên, không có ngoại lệ. Hiến pháp và pháp luật là phương tiện thống trị xã hội, chứ không phải các cơ quan nhà nước, hay nhà cầm quyền.
Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật cũng đồng nghĩa với phạm trù pháp chế, nhưng không đồng nhất. Theo nghĩa hẹp, pháp chế là sự hiện diện của pháp luật và sự tuân theo pháp luật(3); theo nghĩa rộng, là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân(4). Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật cũng gần với “pháp quyền”, là một nội dung của pháp quyền, song pháp quyền có nội dung rộng lớn hơn(5). Pháp quyền đề cập toàn diện mọi mặt đời sống pháp luật, còn “Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” chủ yếu gắn với sự tôn trọng, chấp hành, tuân thủ pháp luật của mọi chủ thể pháp luật, không có ngoại lệ.
Những lý giải đó cho thấy, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là sự đề cao vai trò, giá trị của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội; mọi chủ thể pháp luật đều phải tôn trọng, chấp hành, tuân thủ tự giác, nghiêm minh, thường xuyên, liên tục, không có ngoại lệ, mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý theo Hiến pháp và pháp luật. Trong mối quan hệ với quyền lực, Hiến pháp và pháp luật cao hơn quyền lực, các nhà cầm quyền, lãnh đạo, quản lý cũng đều phải tôn trọng, chấp hành, tuân thủ, đặt mình dưới Hiến pháp và pháp luật.
Nội dung của thượng tôn Hiến pháp và pháp luật
Thứ nhất, đối với nhà nước, sự thượng tôn Hiến pháp và pháp luật thể hiện ở tính hợp pháp của hệ thống pháp luật. Theo đó, mọi văn bản quy phạm pháp luật phải được xây dựng, ban hành và thực hiện theo đúng thủ tục và nội dung do pháp luật quy định, mọi vi phạm đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật còn thể hiện ở tính thứ bậc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đó Hiến pháp có hiệu lực tối cao, dưới Hiến pháp là các đạo luật; các đạo luật có hiệu lực cao hơn so với các văn bản dưới luật. Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản..., có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Bất kỳ văn bản pháp luật nào được ban hành cũng đều phải phù hợp với Hiến pháp, các văn bản dưới luật phải phù hợp với luật, văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Trong trường hợp quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Văn bản pháp luật của hệ thống hành chính không được trái, mâu thuẫn với văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, cấp trên. Văn bản áp dụng pháp luật phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, cơ quan nhà nước (chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước) phải tổ chức thi hành và đưa Hiến pháp và pháp luật vào đời sống xã hội. Hiến pháp và pháp luật có thành hiện thực hay không tùy thuộc rất lớn vào hoạt động tổ chức thi hành pháp luật của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Cùng với tuyên truyền, giáo dục pháp luật, cơ quan hành chính nhà nước phải trực tiếp thực hiện Hiến pháp và pháp luật thông qua việc thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước; bố trí, sử dụng nguồn nhân lực cho hoạt động công vụ; thực hiện quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước, hoặc phạm vi địa phương. Trong những hoạt động này, mọi cơ quan nhà nước đều phải chấp hành, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan nhà nước là những hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nhằm kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội, cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước. Vì vậy, khi thực hiện các hoạt động này, mọi cơ quan nhà nước đều phải chấp hành, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm minh, công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình về mọi hoạt động đó.
Trong đời sống xã hội thường phát sinh những tranh chấp, có các hành vi vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, vi phạm hành chính, tội phạm, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và xử lý hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật. Đây là những hoạt động trực tiếp ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhà nước, xã hội, mà phần lớn được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật. Do đó, khi giải quyết tranh chấp và xử lý hành vi vi phạm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm công bằng, khách quan, theo đúng thủ tục do luật định, nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Các tổ chức của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội đều phải tôn trọng, chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Khoản 3 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Trong tổ chức và hoạt động của mình, các tổ chức thành viên hệ thống chính trị như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam đều phải tôn trọng, tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức trong nước và nước ngoài, cá nhân và công dân Việt Nam, người nước ngoài ở Việt Nam, người không có quốc tịch đều phải tôn trọng, chấp hành, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, không có ngoại lệ, mọi vi phạm đều bị xử lý theo pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy tình trạng vi phạm pháp luật diễn ra khá phổ biến ở mọi cấp, mọi ngành, của tất cả các chủ thể pháp luật. Mức độ, tình trạng thượng tôn Hiến pháp và pháp luật có thể được đánh giá thông qua tình trạng vi phạm pháp luật, hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật, tỷ lệ thuận với các hành vi hợp pháp và tỷ lệ nghịch với hành vi vi phạm pháp luật.
Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những tác động, yếu tố tích cực thì cũng có nhiều hạn chế như sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, vi phạm pháp luật, tội phạm. Trong nền kinh tế thị trường, con người chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh… dẫn đến tình trạng tội phạm, vi phạm pháp luật trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp.
Báo cáo tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 (ngày 22/12/2022) của Tòa án nhân dân tối cao đánh giá: số lượng các loại vụ việc mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết năm 2022 tăng gần 6% so với năm 2021, với tính chất đa dạng, phức tạp. Trong năm 2022, các tòa án đã thụ lý 567.521 vụ việc; về hình sự, đã thụ lý 93.452 vụ với 178.830 bị cáo; đã xét xử nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng do những người có chức vụ, quyền hạn gây ra những thiệt hại đặc biệt lớn (đã tuyên thu hồi tiền, tài sản đối với 840 vụ, 1.995 bị cáo với số tiền trên 4.027 tỷ đồng và nhiều tài sản khác). Các tòa án cũng đã đưa ra xét xử 188 vụ với 297 bị cáo liên quan đến phòng, chống dịch COVID-19. Các tòa án đã thụ lý 444.402 vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động; đã ban hành 176 quyết định buộc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đã áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với 17.416/17.432 hồ sơ; đã thụ lý 07 yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; 31 vụ án dân sự mà người bị oan, sai khởi kiện các cơ quan nhà nước yêu cầu bồi thường(6). Số liệu đó cho thấy, người vi phạm không chỉ là cá nhân công dân, tổ chức trong xã hội, mà chủ thể vi phạm có cả cán bộ, công chức, trong đó có cả cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, việc đánh giá mức độ, tình trạng “Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” còn được đánh giá thông qua việc xem xét, đánh giá tính hợp pháp trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành; qua việc xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, tình trạng vi phạm kỷ luật của cán bộ, công chức, viên chức, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội. Từ thực tiễn, có thể khẳng định tình trạng vi phạm pháp luật ở nước ta hiện nay xảy ra ở tất cả các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương; cả khu vực công, khu vực tư đều có nhiều diễn biến phức tạp, gia tăng. Ý thức thượng tôn pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, người dân còn thấp, không phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Một số giải pháp bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật để hình thành, củng cố ý thức pháp luật của toàn xã hội, trước hết với đối tượng là học sinh, sinh viên, cần phải coi đó là yêu cầu bắt buộc của mọi cấp học; đồng thời đổi mới chương trình, nội dung giáo dục pháp luật một cách thiết thực, phù hợp với các đối tượng học sinh, sinh viên. Đối với người dân, tùy theo địa bàn sinh sống để phổ biến những nội dung pháp luật cần thiết, đặc biệt là những quy định pháp luật về sinh hoạt đời sống cộng đồng, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức; đề cao nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc tập trung dân chủ trong các cơ quan, tổ chức... để mỗi cán bộ, công chức, viên chức luôn có ý thức tôn trọng, chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Thường xuyên quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến tất cả các đối tượng trong xã hội, cán bộ, công chức, viên chức cần xác định việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên trong toàn xã hội. Trong các cơ quan, tổ chức nhà nước phải đề cao nguyên tắc tự phê bình và phê bình đối với cá nhân, tổ chức có những biểu hiện lệch lạc, hay có hành vi phạm kỷ luật, pháp luật dù là nhỏ nhất. Qua đó, hình thành lối sống tôn trọng, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan, tổ chức. Đồng thời, phát huy dân chủ, tính tích cực chính trị của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong các cơ quan, tổ chức.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ về nội dung và hình thức; tăng cường ban hành luật, giảm dần các văn bản dưới luật, tiến tới điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng luật. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện nay, phải quan tâm đến pháp luật về quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực nhằm bảo đảm trật tự, trị an, an toàn xã hội, an toàn về pháp lý cho mọi cá nhân, tổ chức. Đồng thời, phải gia tăng tính răn đe, trừng phạt của pháp luật đối với cá nhân, tổ chức vi phạm để họ “không dám vi phạm”.
Ba là, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật với quan điểm “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”… để bảo đảm được trật tự, kỷ cương, phép nước và hình thành ý thức tôn trọng pháp luật. Khi các biện pháp giáo dục, thuyết phục không mang lại hiệu quả thì phải áp dụng các biện pháp kinh tế, hành chính, hình sự đối với người vi phạm để cho họ không thể vi phạm, không dám vi phạm. Cần phải kết hợp các biện pháp pháp lý với các biện pháp tác động thông qua các tổ chức của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là dư luận xã hội không chỉ đối với người vi phạm, mà cả đối với nơi họ làm việc, sinh sống.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, đồng thời kết hợp với giám sát xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội, của công dân đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật. Qua đó, tác động đến ý thức chấp hành, tôn trọng pháp luật của các đối tượng xã hội để hình thành và củng cố được ý thức “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”./.
(1),(3),(4) Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, H.2017, tr.307-311, tr.680-681, tr.680.
(2) Đào Trí Úc và Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên), Đại cương về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2017, tr.106-109.
(5) Báo cáo tổng hợp đề tài KX 04-06/16-20 “Thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp”. Xem https://hdll.vn/.
(6) Tòa án Nhân dân tối cao, Báo cáo tóm tắt Tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của Tòa án (ngày 22/12/2022). Xem: https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-chi-dao-dieu-hanh.
GS.TS Phạm Hồng Thái - Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phạm Hồng Sơn - Học viện Hành chính Quốc gia